Thanh toán online bằng ứng dụng ngân hàng điện tử
COVID-19, yếu tố cộng hưởng đẩy nhanh số hóa
2020, năm mà đại dịch COVID-19 xuất hiện và năm 2021 – trong trạng thái “bình thường mới”, chuyển đổi số cực kỳ phát huy tác dụng, nhất là đối với ngành ngân hàng giữ vai trò “huyết mạch” của nền kinh tế. Phần lớn các ngân hàng đều đa dạng dịch vụ trên kênh số: thanh toán hóa đơn, thanh toán thương mại điện tử, chuyển tiền, tiết kiệm trực tuyến; số hóa các hoạt động nghiệp vụ, áp dụng chữ ký điện tử, chữ ký số nội bộ… Đồng thời, kết hợp với các công nghệ thiết bị di động, kết nối dữ liệu mở theo giao diện chương trình ứng dụng, phân tích dữ liệu, chuẩn hóa tin theo chuẩn tin điện tử tài chính quốc tế ISO 20022, công nghệ hỗ trợ khách hàng… Trong đó, phân tích dữ liệu là công nghệ được ứng dụng rộng rãi nhất.
Điển hình có thể kể đến quy trình tự động hóa bằng robot (RPA) đã giúp HDBank giảm hơn 80% thao tác thủ công của nhân sự vận hành, tăng tốc độ xử lý nhanh gấp 30 lần (từ 3 phút xuống chỉ còn 5 giây/giao dịch) với tỷ lệ sai sót gần như bằng zero. Các ứng dụng số và tự động hóa hoạt động của HDBank trong sản phẩm dịch vụ đã giúp nâng cao hiệu quả và đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng trong bối cảnh thực hiện giãn cách và bình thường mới. Nhờ đó, năm 2021, số lượng giao dịch e-banking ở ngân hàng này tăng gấp hai lần, giá trị giao dịch cao gấp 3 lần.
Hỗ trợ doanh nghiệp những ngày nới lỏng giãn cách và từng bước phục hồi sản xuất kinh doanh trong tâm thế thích ứng an toàn trước dịch bệnh, không đứt gãy tài chính, HDBank triển khai dịch vụ đi kèm với thúc đẩy tín dụng như quản lý dòng tiền, cung cấp phương thức thanh toán chứng từ trả chậm (UPAS L/C) thúc đẩy xuất nhập khẩu, thanh toán nhanh trên ebanking với gói giải pháp số toàn diện. HDBank đã số hóa quy trình vận hành: Ứng dụng robot vào tự động chấm công, hỗ trợ xử lý khiếu nại, duyệt lệnh tự động.
VIB đã tiên phong áp dụng công nghệ các tập dữ liệu có khối lượng lớn và phức tạp (Big Data), trí tuệ nhân tạo (ML) và điện toán đám mây vào các giao dịch, giúp trải nghiệm thanh toán trực tuyến của khách hàng được thuận lợi. Nhờ việc tối ưu hóa chi phí và ứng dụng số hóa, tự động hóa vào các khâu vận hành, chi phí hoạt động của VPbank được tiết giảm 7,5%… Số hóa giúp các ngân hàng tiết kiệm 2/3 chi phí và khi đã tiếp cận số hóa, các ngân hàng có xu hướng tiếp cận ngày càng sâu hơn dịch vụ ngân hàng số, tích hợp đa chiều trong cung ứng dịch vụ tài chính trọn gói.
Giám đốc HDBank Huế – Nguyễn Viết Anh khẳng định: Số hóa là xu thế tất yếu và COVID-19 là yếu tố “cộng hưởng” đẩy nhanh quá trình này; giúp ngành ngân hàng mang đến lợi ích nhiều hơn cho nền kinh tế. Nhờ số hóa mà cả ngân hàng lẫn phía khách hàng – doanh nghiệp và cá nhân đảm bảo sự lưu thông tiền tệ thông suốt trong mọi bối cảnh, bao gồm cả ở những thời điểm giãn cách cao điểm do dịch COVID-19. Với tỷ lệ sử dụng điện thoại di động thông minh và ngày càng nhiều người dân được kết nối Internet cùng sự hiện diện của công nghệ thông tin, quá trình số hóa đã và đang phát huy tác dụng.
Tương lai ngân hàng số – cuộc đua marathon
Một khảo sát của Ngân hàng Nhà nước Thừa Thiên Huế từ các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh cho thấy: 52% các nghiệp vụ ngân hàng cho phép khách hàng có thể thực hiện hoàn toàn trên môi trường số; 43% số lượng giao dịch của khách hàng được thực hiện thông qua các kênh số; 26% ngân hàng có tỷ trọng doanh thu từ kênh số; 26% quyết định giải ngân, cho vay của ngân hàng thương mại, công ty tài chính đối với các khoản vay nhỏ lẻ, vay tiêu dùng của khách hàng cá nhân được thực hiện theo hướng số hóa, tự động; 50% hồ sơ công việc tại ngân hàng được xử lý và lưu trữ trên môi trường số. Giá trị giao dịch trên kênh Internet và mobile banking của các ngân hàng trong năm 2021 tăng hơn 20 lần so với trước thời điểm dịch COVID-19; riêng kênh mobile banking tăng hơn 10 lần. Tiềm năng lớn của kênh ngân hàng số đã mở lối cho cuộc đua xu hướng thứ hai là đầu tư công nghệ và chuyển đổi số trong hệ thống ngân hàng – một cuộc đua marathon cả về tốc độ và quy mô.
Ngân hàng Nhà nước nhận định: Bên cạnh cuộc đua về xây dựng và định vị thương hiệu các sản phẩm ứng dụng ngân hàng số tiêu biểu là VCB Digibank, VPbank NEO, VietinBank iPay, My VIB…, trong ngành ngân hàng đang có một cuộc đua ngầm khác là nâng cao năng lực công nghệ để chuẩn bị trước bởi sự đe dọa từ các công ty công nghệ tài chính (fintech) và dịch vụ không dùng tiền mặt (mobile money) trong thời gian tới. Techcombank lựa chọn Amazon Web Services làm đối tác cung cấp dịch vụ điện toán đám mây. VietinBank, ACB, TPbank… triển khai các giải pháp khai thác Big data, trí thông minh nhân tạo (AI), ML vào phân tích dữ liệu khách hàng.
Dự kiến đến năm 2025, khoảng 1/3 doanh thu ngân hàng truyền thống sẽ được quản lý bởi các mô hình kinh doanh mới. Xu hướng số hóa phổ biến là trên các phân khúc bán lẻ, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong khi, đa số ngân hàng được khảo sát đang triển khai ngân hàng số ở cấp độ chuyển đổi về quy trình và kênh giao tiếp, rất ít ngân hàng chuyển đổi về nền tảng dữ liệu mới. Các quy định pháp lý đối với phát triển ngân hàng số chậm được ban hành, chủ yếu tập trung cho hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt (chứng thực chữ ký số, xác định danh tính khách hàng, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong dịch vụ tài chính, bảo vệ tính riêng tư dữ liệu người dùng…), nên chưa đáp ứng được yêu cầu tạo thuận lợi để hệ thống ngân hàng thích ứng với bối cảnh số hóa.
Hệ thống ngân hàng cũng tự nhận thấy bốn thách thức lớn khi triển khai ngân hàng số. Đó là dễ gặp rủi ro an ninh mạng, thiếu các chính sách và quy định pháp luật hỗ trợ, có quá nhiều ưu tiên chồng chéo và thiếu lao động có kỹ năng. Hạ tầng công nghệ và hệ thống nền tảng thanh toán chưa đáp ứng được nhu cầu tăng nhanh của người dùng, dù ngành ngân hàng được xem là đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong vận hành, quản lý. Theo Giám đốc Trung tâm Chuyển đổi số của VIB, các ngân hàng cần tập trung vào ba yếu tố quan trọng, gồm con người, quy trình và giải pháp công nghệ để thực sự triển khai ngân hàng số thành công.
Bài, ảnh: Bạch Quang