Người khởi kiện là bà H. (trú tại thôn Tân Ba, xã Thủy Bằng, TP. Huế). Người bị kiện là UBND TP. Huế.
Theo bên khởi kiện: Năm 1995, bà H. và ông Văn H. (sinh năm 1967, đã chết năm 2016) tổ chức lễ cưới; được UBND xã Thủy Bằng huyện Hương Thủy (nay là TP. Huế) cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 22/10/2003. Quá trình chung sống, vợ chồng bà H. khai phá đất đai và xây dựng căn nhà cấp 4 có diện tích 70m2 trên đất, tọa lạc tại thôn Tân Ba, xã Thủy Bằng.
Vợ chồng bà H. nộp đơn xin cấp sổ đỏ và được UBND huyện Hương Thủy lúc đó, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (CNQSDĐ), ngày 18/11/2003. Quá trình cấp giấy chứng nhận không có ai tranh chấp, được UBND xã Thủy Bằng xác nhận và được những người dân sống lâu năm trên thửa đất này làm chứng.
Ngày 10/9/2021, bà H. nhận được giấy mời của Thanh tra TP. Huế, mời đến làm việc để làm rõ các vấn đề liên quan đến việc cấp giấy CNQSDĐ tại thửa đất tọa lạc tại thôn Tân Ba, xã Thủy Bằng. Sau đó bà H. nhận được Quyết định số 8211/QĐ-UBND ngày 29/10/2021 của UBND TP. Huế về việc thu hồi CNQSDĐ do UBND huyện Hương Thủy cấp cho vợ chồng bà nêu trên, với lý do: “Giấy CNQSDĐ đã cấp không đúng nguồn gốc, đối tượng sử dụng đất”.
Vì vậy, bà H. khởi kiện đề nghị tòa án giải quyết: Tuyên hủy quyết định của UBND TP. Huế về việc thu hồi giấy CNQSDĐ do UBND huyện Hương Thủy cấp cho vợ chồng bà.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, biên bản làm việc giữa Thanh tra TP. Huế và bà H, hội đồng xét xử TAND tỉnh xác định: Nguồn gốc thửa đất số 45, tờ bản đồ số 04, diện tích 2.088m2, tọa lạc tại thôn Tân Ba, xã Thủy Bằng được UBND huyện Hương Thủy cấp giấy CNQSDĐ ngày 18/11/2003 cho vợ chồng bà H. là của ông C. và bà N. (bố mẹ chồng bà H) khai hoang, tạo lập từ năm 1977. Trên thửa đất có xây dựng một ngôi nhà để ông C. bà N. và các con ở. Năm 1980 ông C. chết, năm 2020 bà N. chết.
Quá trình đăng ký sử dụng đất: Theo báo cáo ngày 19/8/2022 của UBND xã Thủy Bằng thì hồ sơ, bản đồ 299 hiện nay UBND không còn lưu trữ. Tại bản đồ địa chính, đo đạc năm 2005, thuộc thửa đất số 77, tờ bản đồ số 33, diện tích 2.171,3m2, thể hiện tên bà N.
Tại hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận do vợ chồng bà H. lập vào năm 2001 đã kê khai nguồn gốc đất tự khai phá năm 1989, nhà tự xây dựng và đã được UBND xã Thủy Bằng xác nhận ngày 25/10/2003 với nội dung “Đất tự khai phá, ở ổn định từ năm 1989 đến nay không có tranh chấp”. Tuy nhiên, theo lời khai của bà H. thì năm 1995 bà và ông Văn H. tổ chức lễ cưới, đến năm 2003 mới đăng ký kết hôn.
Mặt khác, qua làm việc bà H. cho biết: Năm 1997, vợ chồng bà mới về sinh sống cùng với mẹ chồng là bà N. trong ngôi nhà gỗ tại thửa đất này.
Như vậy, vợ chồng bà H. kê khai nguồn gốc nhà đất do vợ chồng bà khai hoang, tạo lập và ở từ năm 1989 là không đúng về nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất; thửa đất nêu trên là do ông C. bà N. (cha mẹ chồng bà H) tạo lập, sử dụng từ năm 1977. Do đó, UBND huyện Hương Thủy cấp giấy chứng nhận thửa đất số 45, tờ bản đồ số 04, diện tích 2.088m2 cho vợ chồng bà H. ngày 18/11/2003 là không đúng nguồn gốc, đối tượng sử dụng đất. UBND TP. Huế ra quyết định thu hồi giấy CNQSDĐ do UBND huyện Hương Thủy cấp cho vợ chồng bà H. ngày 18/11/2003 tại thửa đất nêu trên, tọa lạc tại thôn Tân Ba, xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy (nay là TP. Huế) là có cơ sở, đúng quy định pháp luật.
Căn cứ các quy định của pháp luật, hội đồng xét xử TAND tỉnh quyết định bác đơn khởi kiện của bà H. về việc yêu cầu hủy quyết định của UBND TP. Huế về việc thu hồi giấy CNQSDĐ do UBND huyện Hương Thủy cấp cho vợ chồng bà H. ngày 18/11/2003, tại thửa đất số 45, tờ bản đồ số 04, diện tích 2.088m2, tọa lạc tại thôn Tân Ba, xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy (nay là TP. Huế).
Trước đó, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án (các con của ông C và bà N) khiếu nại cho rằng, nguồn gốc thửa đất nêu trên là của cha mẹ. UBND thị xã Hương Thủy trước đây cấp giấy CNQSDĐ cho vợ chồng bà H. là không đúng. Do đó, trên kết quả thanh tra, UBND TP. Huế đã ra quyết định thu hồi CNQSDĐ do UBND huyện Hương Thủy cấp cho vợ chồng bà H.
Quỳnh Anh